Tag: study abroad

Chút hoài cổ ở Bath yên bình

Chút hoài cổ ở Bath yên bình

Nếu đã trót yêu nét đẹp cổ kính của nước Anh qua ngòi bút của nữ nhà văn Jane Austen, bạn nhất định phải ghé chơi Bath một lần! Ngược dòng thời gian Một buổi sáng thứ 7 vào cuối tháng 10, chuyến xe lửa 

Làm gì sau khi đã nộp hồ sơ học bổng Chevening?

Làm gì sau khi đã nộp hồ sơ học bổng Chevening?

Lời đầu tiên, mình xin chúc mừng bạn đã hoàn thành xong 1/2 chặng đường chinh phục học bổng Chevening năm nay. Bây giờ chúng ta cùng điểm qua một vài điều bạn có thể làm trong thời gian tới nhé. Nghiên cứu kỹ Timeline 

Có một London rất xanh

Có một London rất xanh

Tôi đặt chân xuống London vào đầu tháng 9, khi cái nắng hè đã bớt chói chang nhưng vẫn đủ tỏa sáng một bầu trời xanh trong. Khi còn ở nhà với vô vàn những tưởng tượng về nước Anh và thủ đô London, tôi vẫn tưởng tượng mà màu đỏ của xe bus 2 tầng, màu xám của bầu trời những ngày mưa và màu gạch đỏ của những ngôi nhà cổ kính. Tôi cứ ngỡ London náo nhiệt, đông đúc, ồn ào phố xá lắm. Tôi vẫn nghĩ, thủ đô của một quốc gia, một siêu đô thị Metropolitan, trung tâm tài chính có lẽ tôi sẽ thấy quanh mình toàn những tòa nhà chọc trời hay những dãy đậm chất châu Âu nằm san sát. Nhưng rồi, những ngày đầu đặt chân xuống London, tôi ngỡ ngàng đứng giữa một không gian thật khác với những gì mình đã tưởng tượng. Ít ai biết rằng, 47% diện tích London được phủ xanh bằng những công viên hoàng gia rộng lớn, những khu vườn nhỏ và một quảng trường xinh yên bình giữa những khu dân cư. Tôi thích được dạo bước giữa những công viên rộng lớn, hít thật sâu để cảm nhận trọn vẹn hương vị trong trẻo, tươi mới và đắm mình giữa màu sắc mùa thu.

 1. Hyde Park

Hyde Park là công viên đầu tiên tôi đến khu vừa đặt chân xuống London. Khi ấy, tôi vẫn ở trong một căn nhà trọ ở khu Baywater trước khi chính thức chuyển vào khu nhà sinh viên. Khi bước vào Hyde Park, nhìn thấy một màu xanh như kéo dài vô tận rồi thấy đàn thiên nga trắng muốt đang đập cánh giữa hồ nước xanh thẳm rộng mênh mông lấp lánh dưới nắng chiều, tôi vẫn dùng một từ để miêu tả cảm giác của mình khi ấy – “vi diệu”. London ở đây, ngay trước mắt tôi và quá khác so với những gì tôi đã tưởng tượng. Lần đầu bước vào công viên, tôi ghé thăm khu vực có những chú chim màu xanh. Một người đàn ông ở đó rắc vào tay tôi một ít hạt để cho chim ăn và lần đầu tiên tôi thấy chú chim màu xanh lá cây tinh nghịch ăn những hạt khô trên tay mình.

Hyde Park là công viên rộng nhất ở trung tâm London trải dài từ khu Westminster đến Kengsinton và được xem như lá phổi xanh của thành phố. Với diện tích rộng lớn như vậy, ở Hyde park tôi có thể thấy rất nhiều các hoạt động như cưỡi ngựa, đi cano, bơi thuyền, và công viên giải trí Giáng sinh Winter Wonderland. Ngay phía cửa Tây nam của công viên, tôi có thể ghé thăm Royal Albert Hall và 3 bảo tàng lộng lẫy ở sát nhau đó là bảo tàng lịch sử tự nhiên, bảo tàng khoa học và bảo thàng thời trang Victoria & Albert.

2. Regent Park và Primerose Hills

Tôi học ở University of Westminster, Marylebone Campus ngay gần Regent park. Tọa lạc trên khu vực phía Tây Bắc London, Regent’s Park gần Bảo tàng Sherlock Holmes, Madame Tussauds và nằm cạnh vườn thú London. Đây là một khu vực tuyệt vời để du lịch và giải trí. Bên trong công viên, có những khu vườn, hồ, vườn hoa hồng Queen Mary, sân vận động và công viên dành cho trẻ em trong công viên, nhà hát ngoài trời thường biểu diễn ở kịch của Shakespeare vào mùa hè. Regent park luôn lộng lẫy sắc hoa cả bốn mùa.

Có một địa điểm nối liền với Regent park về phía Nam đó là Primrose Hill. Sau khi đi qua một đoạn dốc để đi lên đỉnh đồi, tôi có thể nhìn thấy những công trình nỗi bật nhất của thành phố từ trên cao. Primerose Hill thường rất yên tĩnh. Tôi thường gặp ở đó rất nhiều người một mình đứng trên đỉnh đồi, lặng lẽ nhìn về phía những công trình nổi tiếng ở London như đang đắm chìm vào dòng suy nghĩ miên man của riêng mình.

3. Green Park và St Jame Park

Green Park và St Jame Park là hai công viên hoàng gia nằm sát nhau ngay trước cửa cung điện Buckingham. So với Hyde Park và Regent Park, Green Park và St Jame Park có diện tích khiêm tốn hơn, nối liền nhau.

Green Park nằm ngay sát đại lộ Picaddily sầm uất còn St Jame Park nằm ngay sát cổng vào cung điện Buckingham. Lần đầu tiên tôi đến đây, lúc 11h trưa, tình cờ được xem nghi thức đổi gác với tiếng nhạc và duyệt binh rất ấn tượng. St Jame Park có những vườn hoa nhỏ và một hồ nước nhỏ, nhìn xa xa bạn sẽ thấy vòng quay London Eyes.

Nằm ở vị trí trái tim của thành phố, khi vừa bước ra khỏi không gian yên bình của công viên, đi dạo những con phố xung quanh công viên, bạn sẽ thấy những tòa nhà bằng đá màu xám cổ kính, đi tới khu giao lộ Picaddily với tấm biển quảng cáo khổng lồ và tượng thần tình yêu Eros, để hòa mình vào cuộc sống sôi động của London.

4. Richmond Park

Richmond là công viên lớn nhất trong 8 công viên hoàng gia tại London, nằm ở phía Tây thành phố, mất gần 1 giờ đi tàu từ trung tâm London. Khi xuống bến tàu, trước khi vào công viên, chúng tôi bắt xe bus để vào cửa công viên, đi qua một khu phố xinh xắn với những ngôi nhà mái gỗ cổ kính và những cửa tiệm nhỏ xinh.

Điểm đặc biệt của Richmond đó là công viên được coi như một khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia. Tôi có thể tận mắt trông thấy những đàn hươu đang chạy ngay trước mặt mình. Khi tới đây, mọi người luôn được cảnh báo tránh xa đàn hươu, đặc biệt từ tháng 5 đến tháng 7 là mùa sinh sản của đàn hươu bởi du khách có thể không may bị đàn hươu tấn công.  Richmond park đặc trưng bởi những đồng cỏ nhấp nhô, khu ao hồ rất hoang sơ, vườn hoa Isabella Plantation nằm giữa công viên và những con suối nhỏ.

5. Hampstead heath

Không nằm trong số những công viên hoàng gia, nhưng Hampstead Heath là một trong những không gian dành cho cộng đồng được yêu thích nhất ở London. Nằm cách trung tâm thành phố khoảng 6 dặm về phía bắc, Hampstead Heath được ví nhưng một hòn đảo nhỏ, nơi có cuộc sống ngoại ô thanh bình và là nơi sinh sống của nhiều loài động vật hoang dã. Bởi cả Richmond và Hampstead đều nằm xa trung tâm thành phố, nên mỗi lần đến đây, tôi có đó là một chuyến đi dã ngoại xa có chuẩn bị đồ ăn trưa hơn là một cuộc dạo chơi thư giãn như ở Hyde park, Regent park và Green park.

Không giống với các công viên khác với những quãng đường bê tông bằng phẳng và khá dễ chịu, dạo quanh Hampstead Heath chủ yếu tôi phải leo những đoạn đồi, và khi lên trên cao tôi có thể ngắm được toàn cảnh London.  Tôi  thích Hampstead Heath không chỉ bởi công viên rộng mới mà còn bởi khu phố cổ kính rất xinh và quán Pub cổ Holly Bush đẹp như ngôi nhà trong truyện cổ tích.

Trước đây, tôi chẳng thể tin được rằng mình có thể tìm thấy những nơi thực sự yên tĩnh, hoang sơ, trong lành và yên bình đến như vậy ở ngay giữa trung tâm thủ đô mà cuộc sống luôn hối hả, náo nhiệt. Và cũng còn rất nhiều những công viên khác mà tôi phải dành cả một năm để khám phá.

Bạn bè hay hỏi khi rời London, điều gì khiến tôi nhớ nhất. Sống ở London rất khác với một vị khách ngao du. Nếu như tới London để du lịch hay công tác ít ngày, chắc tôi chẳng thể dành thời gian cả một ngày để lang thang giữa những công viên rộng lớn. Những điều tuyệt vời ở London, chắc tôi kể mãi sẽ chẳng hết, nhưng chắc chắn tôi sẽ nhớ sắc màu rực rỡ của những công viên, xanh ngắt mỗi mùa hè, vàng rực mối mùa thu và hồng thắm sắc hoa đào khi xuân đến. Tôi sẽ nhớ những ngày lang thang ngồi trên bãi cỏ ăn cây kem mát lạnh ngọt lịm, nhớ những ngày hè cùng hội bạn picnic tận hưởng những ngày nắng ít ỏi ở xứ sở sương mù, nhớ những buổi trưa cùng cô bạn thân học cùng lớp ra Regent park ăn trưa, nhớ những ngày chẳng có kế hoạch gì nhưng chỉ cần tìm một ghế đá ngồi đọc sách và ngắm nhìn cuộc sống thường nhật ở London, nhìn mãi màu xanh mướt này cũng đủ thấy vui. Công viên là nơi đủ yên tĩnh để người ta tìm đến khi muốn được ở một mình và đủ ồn ào để không cảm thấy cô đơn.

Bài viết: Nguyễn Phương Anh – Học giả Chevening 2018/2019

Ảnh: Nguyễn Phương Anh – Học giả Chevening 2018/2019

[Chevening Orientation 2019] Ra biển lớn cùng Chevening

[Chevening Orientation 2019] Ra biển lớn cùng Chevening

Tháng mười hàng năm là một dịp rất đặc biệt đối với các học giả Chevening, khi gần 1800 học giả từ khắp nơi trên thế giới cùng tụ họp tại trung tâm hội nghị triển lãm ExCeL, London để tham gia Chevening Orientation. Đó 

KỲ GIÁNG SINH CUỐI CÙNG Ở ANH

KỲ GIÁNG SINH CUỐI CÙNG Ở ANH

Vào những ngày tháng 12 ở bên Anh, trời lúc nào cũng đã buông màn đêm từ tầm 4 giờ chiều, mọi người chỉ mong được về nhà sớm, chui vô chăn, nhâm nhi tách trà bên quyển sách yêu thích hay đơn giản cùng 

[My UK Path | Con đường nước Anh] No pain, no gain

[My UK Path | Con đường nước Anh] No pain, no gain

This post is dedicated to my friends who are taking their master’s programmes in the UK.
Bài viết song ngữ này dành cho những người bạn đang học tập tại Vương quốc Anh. Phần tiếng Việt năm ở dưới.

“For those who have achieved a provisional mark of 65% or more, you’re in a very good state to get a Distinction for the final mark. You have done really well.” – said Benson Lau, my course director.

“69%” – I glanced over my provisional mark sheet, red eyes weighed down with dark bags.

“I hope you slept well. I saw you guys sleeping during the final review” – said Benson.

“Actually, I pull an all-nighter every single Wednesday.” – I confessed.

Truth unfolding, it has been over 3 months since the autumn term started and I rarely go to bed before 3 am. Apparently, for an international postgraduate student in the UK, things are harsh.

British education is no budget choice. Reputable master programmes at accredited universities range from £14,000 to around £34,000 while a QS Rankings 700+ institution can offer courses at as low as £8000. Added up by a living cost of £10,000-12,000 per annum, the total amount can be 10 times as much as the annual earning of a typical family in a developing country. Here comes the bet: a non-EU must either be backed by his financially viable family, or get a scholarship, or place his wager on a low-tier academic setting.

Given the situation, grants are much scoured by overseas postgraduates hoping to mitigate financial burdens. However, while there are generous sponsors such as the UK government or wealthy universities to provide selected candidates with not only full course fee but also board and lodging, chances are slim. In 2015, among over 1800 taught and research international freshers at my university, only about 2% of them win a full bursary. Even 50% tuition fee waivers are as scarce as 1 out of 16.

So it is not unusual to find a classroom full of young adults with Macbook Pros or hi-end Dells at the University of Nottingham. Apparently, the majority of my peers resort to the support of their parents whose incomes are hardly anywhere below or near the average line.

Money is to buy you time and there is no alternative

Some people think of a combined solution to afford their studies. Having grabbed a partial scholarship, they envisage to work part-time to deal with the remaining schooling and living costs.

Unfortunately, such vision is a pie in the sky. Good tertiary education is about individual studies requiring exhausting dedication. The 120-credit taught master’s component, excluding the dissertation, means 1200 study hours distributed into average blocks of 37.5 hours per week, even higher than the standard work hours of an English full-time employee. Sadly, much more bitter is the fact. Every single master student that I have asked agrees on one thing: if one gives himself only a day off in the middle of term time, he will crawl among an endless load of crap for the next couple of days.

Connecting these hard pieces of truth, there are only a few possibilities for a postgraduate to finance his study with part-time wages: he either is a pure intellectual genius or chooses a less time-demanding master’s programme. The former case is unlikely because geniuses are supposed to win full scholarships. As with the latter, I would highly doubt the outcome of the course.

Because time is substance

British pedagogy is learner-centered, i.e. students interpret knowledge themselves; distinctions only come from a serious investment of time. So if a non-Eu postgraduate wants to outperform his peers when he returns to his home country, he must spend as many hours as possible on his study. In a nutshell, he trades bloody time and health for theoretical and practical proficiency.

Take my case for an example. In my autumn term, lectures cost only 13 hours per week. The tough parts were project review and tutorial which ran weekly. Every Thursday at 9.30 am, 18 architecture students gathered in a 24 m2 room with a new set of drawings and models for these two sessions which never ended before 5.30 pm. The review began with everyone starting to pin up their 2 or 3 A1-sheets and place their 1/50 physical models. Their designs, progress, verbal and graphic presentations will be seriously criticised. New designs, sheets, and physical models are compulsory.

So everyday I would wake up at 8.30 am. School started at 9 or 9.30 am and ended at either 1 pm or 5.30 pm. From 1.30 pm to 6 pm was always for study or tutorial. Dinner at 7.30 pm. Next came time slots for brainstorming, search for materials and reading. Bedtime at 3 am. Crafting a model would occupy a full Wednesday night.

While I did aim for an outlying goal of Distinction, my classmates who simply want Pass degrees shared schedules similar to mine. If you send a message to the WhatsApp group of those 18 guys at 3 o’clock on a Thursday morning, there will be tens of quick replies. Whether they are writing essays or tweaking their portfolios at that moment, coursework means induced insomnia.

Yet time is not on your side

Not until the beginning of the term does one realise that there are simply too many things to learn, or that should have been learned. In the UK, work and life challenge your abilities from every aspect.

My Chinese peers, who ever found content with their writing due to their 6-month UK-based pre-sessional English courses, cried badly when they realised that their English skills were nothing. Final submissions were scheduled and all of a sudden two essays of 3000 words surrounded the poorly-prepared ones. Adding up to the load, four A1 posters, design logbooks, reports, and two physical models were required. Problems were compounded by their lack of model crafting and software skills.

For Master of Arts students, things were equally nightmarish when there turned out to be 6 essays and no exams. Time ran out and so did choices. If one can write well, he will be fine. If he has been too lazy to upgrade his average writing skills, his written pieces are crappy and thus the guy will waste his parents’ money.

There are more when it comes to daily conversations. An IELTS 8.0 certificate does not necessarily mean adequacy. I was almost petrified when a cashier at Tesco asked me if I wanted a bag with a swift blow: “Dja-needa-bag?”. I begged her to pardon over and over in awkwardness until she pushed it through by showing a plastic container. Similar cases are numerous: “Tkway-o-eadin”, “blah-blah-blah” (indistinct words from a bank agent via telephone), or “nought point eight” (0.8) to name a few.

So there is no such thing as over-preparedness

In the UK, when it comes to English language skills which are core factors, only two scenarios apply.

You possess impressive speaking and writing strengths and they single you out, amount to your credit, and shut down criticism. Call me a snob or whatever, but that was what I did in every presentation. Strike the judges with a hybrid British-like accent and they shall literally hang to my every word in silence. “Humans are subjective and reviewers are no exceptions” – stated my course director. As they liked my speech, they would turn a blind eye to my mistakes, and even defend me against critical questions. As regards my essays, I got my submission form barcodes scanned two days before the deadline, and treated myself with a 6-day excursion to Edinburgh and Belfast. It would not have been that easy if I had not been trained to write longer and more critical essays.

On the contrary, you choose to be linguistically average and miserable will your academic career be. Fifteen out of seventeen classmates of mine struggled with their essays and reports during the assessment weeks due to inadequate English skills. They only turned their copies in at the last minutes after sleepless nights. And none of them got above 59% for research proposal presentations.

High flier or bottom-dweller, it is up to one’s choice. But never let this fallacy cross your mind: the English education itself facilitates the development of your competence. In fact, the renowned system presents obstacles and through the solving of which do you improve.

Only those who have never ceased to learn may tackle the challenges. For those who think that they are well-conditioned for the UK whether language-wise or thinking-wise, chances are that they will fall behind. All in all, no pain, no gain.

“Với những ai được điểm dự kiến từ 65% trở lên, các bạn đang có một bước đệm rất tốt để đạt điểm cuối cùng là Distinction (*). Các bạn đã rất cố gắng.” – Benson Lau, người phụ trách khóa học của tôi.

“69%” – Tôi liếc qua tờ phiếu điểm dự kiến của mình, mắt đỏ ngầu và nặng trĩu xuống do đám quầng thâm.

“Tôi thấy các bạn ngủ gật trong buổi duyệt cuối.” – Benson nói tiếp.

“Ừm thực ra thì, tối thứ tư nào tôi cũng thức trắng đêm.” – Tôi thú nhận.

Sự thật là, 3 tháng đã trôi qua kể từ ngày đầu tiên của học kì mùa thu, và tôi hiếm khi đi ngủ trước 3 giờ sáng.

Các chương trình cao học ở nước Anh chưa bao giờ là lựa chọn tiết kiệm. Những khóa học chất lượng cao ở những ngôi trường danh tiếng thường có học phí từ 14 000 đến khoảng 34 000 bảng. Ngay cả một ngôi trường nằm ngoài Top 700 của QS Rankings cũng đưa ra mức học phí ít nhất 8,000 bảng. Cộng với 10 000 – 12 000 bảng sinh hoạt phí mỗi năm, tổng số tiền có thể lên tới gấp 10 lần thu nhập hàng năm của một gia đình ở nước đang phát triển. Tính may rủi chính là ở đây: một sinh viên nằm ngoài khối EU buộc phải được hỗ trợ bởi một gia đình có “điều kiện”, hoặc giành được học bổng, hoặc đặt cược vào một ngôi trường có thứ hạng không cao cho lắm.

Với những lựa chọn như vậy, học bổng luôn là thứ được các sinh viên quốc tế săn tìm. Những “Mạnh Thường Quân” như chính phủ Vương quốc Anh hoặc các trường đại học có thể trao những suất học bổng toàn phần cho các ứng viên xuất sắc, tuy nhiên cơ hội để nhận được những học bổng này là vô cùng nhỏ. Năm 2015, trong tổng số hơn 1800 sinh viên bậc cao học được nhận vào trường tôi, chỉ có 2% trong số họ nhận được học bổng toàn phần. Thậm chí học bổng 50% học phí cũng rất hiếm, cỡ 1 trong 16 người.

Vì thế, việc bạn bắt gặp một lớp toàn những sinh viên dùng Macbook Pro hoặc Dell đời mới nhất là chuyện thường ở Đại học Nottingham. Hiển nhiên, phần lớn bạn học của tôi phải cậy đến sự hỗ trợ của các đấng phụ huynh, những người có thu nhập không bao giờ nằm gần mức trung bình.

Tiền dùng để mua thời gian và không có lựa chọn nào khác

Một số sinh viên nghĩ đến một giải pháp kết hợp để có thể học tại Vương quốc Anh. Được miễn một phần học phí, họ dự định sẽ làm việc bán thời gian để trang trải những chi phí sinh hoạt và học tập còn lại.

Nhưng đó gần như là chuyện không tưởng. Giáo dục bậc sau đại học đòi hỏi sự nghiên cứu độc lập tiêu tốn rất nhiều thời gian. Không tính luận văn tốt nghiệp, sinh viên phải trải qua học phần gồm 120 tín chỉ tương đương với 1200 giờ học trong 32 tuần, có nghĩa là trung bình 37.5 giờ mỗi tuần. Con số này còn cao hơn số giờ làm việc tiêu chuẩn của một nhân viên tại Anh. Thực tế thậm chí còn khắc nghiệt hơn nhiều. Tất cả bạn học của tôi lẫn các học giả Chevening mà tôi từng hỏi đều đồng ý: nếu ai đó tự thưởng cho mình một ngày nghỉ giữa học kì, anh ta sẽ phải bò trong đống bầy nhầy trong mấy ngày tiếp theo.

Như vậy, khi một học viên cao học muốn làm thêm để đủ tiền đi học, chỉ có một vài khả năng có thể xảy ra: anh ta hẳn là một thiên tài, hoặc anh ta chọn một chương trình cao học không yêu cầu dành nhiều thời gian. Trường hợp thứ nhất rất khó xảy ra, bởi thiên tài thì đã nhận học bổng rồi. Với trường hợp thứ hai, tôi không tin tưởng lắm vào chất lượng đầu ra của một khóa học như vậy.

Bởi vì thời gian là chất lượng

Giáo dục ở Vương quốc Anh lấy học viên làm trung tâm, có nghĩa là sinh viên tự mình giải mã kiến thức; sự khác biệt chỉ có thể xuất phát từ việc đầu tư thời gian. Vì vậy, nếu một sinh viên quốc tế muốn thực sự vượt trội so với những người đồng lứa khi về nước, anh ta phải dành nhiều thời gian đến hết mức có thể vào việc nghiên cứu. Nói ngắn gọn, anh ta đổi thời gian và sức khỏe lấy sự xuất sắc trong lý thuyết và thực hành.

Lấy chính bản thân người viết làm ví dụ. Trong học kì mùa thu, thời gian lên giảng đường của tôi chỉ có 13 giờ mỗi tuần. Phần “khó nhằn” nhất là buổi duyệt và hướng dẫn đồ án hàng tuần. Cứ 9h30’ mỗi sáng thứ Năm, 18 sinh viên chúng tôi lại tập trung trong một phòng nhỏ, mang theo những bộ bản vẽ và mô hình mới. Buổi duyệt đồ án bắt đầu bằng việc mọi người treo 2 đến 3 poster khổ A1 và bày mô hình 1/50 rồi thuyết trình ý tưởng. Thiết kế, mức độ phát triển của ý tưởng, chất lượng thuyết trình thị giác và thính giác sẽ được giáo viên phê bình rất nghiêm túc. Thiết kế, bản vẽ, và mô hình bắt buộc phải mới hoàn toàn.

Với khối lượng công việc như vậy, mỗi ngày tôi dậy lúc 8h30’. Tiết học đầu tiên thường bắt đầu lúc 9h hoặc 9h30’ và kết thúc lúc 1h hoặc 5h30 chiều. Từ 1h30 đến 6h lúc nào cũng là thời gian tự học hoặc hướng dẫn bài tập. Bữa tối lúc 7h30’, sau đó là thời gian đọc, tìm kiếm và đọc tài liệu. Ngủ lúc 3h sáng. Không đêm thứ Tư nào tôi được ngủ vì phải làm mô hình.

Tất nhiên tôi nhắm tới điểm Distinction. Nhưng ngay cả những người chỉ muốn điểm Pass cũng tuân theo một thời gian biểu không khác tôi là mấy. Nếu bạn gửi một tin nhắn vào nhóm Whatsapp của chúng tôi lúc 3 giờ sáng thứ Năm, sẽ có vài chục tin nhắn đáp lại. Bất kể lúc đó họ đang viết luận hay chỉnh sửa tập hồ sơ của đồ án, bài tập luôn đồng nghĩa với việc không được phép ngủ.

Nhưng thời gian không đứng về phía bạn

Chỉ đến khi học kì bắt đầu, người ta mới nhận ra rằng có quá nhiều thứ phải học, hoặc đáng ra đã phải học. Ở Vương quốc Anh, công việc và đời sống cá nhân thách thức khả năng của bạn trên từng lát cắt nhỏ nhất.

Những người bạn cùng lớp người Trung Quốc, đã từng thỏa mãn với khả năng viết của họ sau 6 tháng học tiếng Anh ở Vương quốc Anh, phải phát khóc khi họ nhận ra rằng kĩ năng của họ chưa ăn thua gì hết. Thời hạn nộp bài được thông báo và thình lình hai bài luận tối thiểu 3000 từ xuất hiện, bao vây những người trước đó chưa bao giờ viết quá 300 từ. Khối lượng công việc còn được bổ sung bởi 4 tờ poster khổ A1, những quyển sổ minh họa quá trình phát triển thiết kế, các bài báo cáo, và hai mô hình tỉ lệ lần lượt là 1/200 và 1/50. Khó khăn chồng chất hơn khi các sinh viên không thuần thục kĩ năng làm mô hình hay sử dụng phần mềm đồ họa.

Câu chuyện của những sinh viên học M.A cũng “ác mộng” không kém khi họ phải viết tới 6 bài luận 3000 từ và không có thi (đồng nghĩa với việc 6 bài luận quyết định điểm cả kì). Thời gian còn lại rất ít, và số lựa chọn cũng chẳng nhiều. Nếu một người có thể viết tốt, anh ta sẽ ổn. Nếu anh ta trước nay vẫn quá lười đến mức không buồn nâng cao trình độ viết, những bài luận anh ta sản xuất sẽ dở như hạch và hiển nhiên anh ta sẽ lãng phí tiền bố mẹ.

Và ngay cả trong giao tiếp hàng ngày, khó khăn cũng không hề thiếu. Chứng chỉ IELTS 8.0 không đồng nghĩa với việc đủ trình độ. Tôi gần như bị “đơ” khi một nhân viên tính tiền ở siêu thị của Tesco hỏi xem tôi có muốn lấy một cái túi đựng không, nhanh như gió: “Dja-needa-bag?”. Tôi phải xin cô ta nhắc đi nhắc lại đến phát ngượng, chỉ đến khi cô ấy kéo từ đâu ra một cái túi ny-lông. Mà những trường hợp tương tự nhiều không kể nổi: “Tkway-o-eadin” (mang đi hay ăn tại đây?), “blah-blah-blah” (có lúc tôi hoàn toàn không nghe được nhân viên ngân hàng nói gì qua điện thoại), hoặc “nought point eight” (0.8).

Không có sự chuẩn bị nào là thừa

Ở Vương quốc Anh này, động đến kĩ năng sử dụng tiếng Anh, chỉ có hai trường hợp xảy ra.

Bạn có kĩ năng viết lẫn nói thực sự tốt, và chúng sẽ làm cho bạn nổi bật, làm tăng sự tín nhiệm, và dập tắt những lời chỉ trích hay phê bình. Gọi tôi là đứa kiêu căng hay gì cũng được, nhưng đó chính xác là những gì tôi làm được trong mỗi buổi thuyết trình. Đánh vào thính giác của họ với một giọng hơi giống người Anh, và họ lắng nghe từng từ tôi nói, trong im lặng. “Con người cảm tính và những người duyệt hay chấm bài cũng vậy” – thầy tôi nói. Khi họ thích bài nói của tôi, họ sẽ bỏ qua những lỗi lặt vặt, thậm chí bảo vệ tôi trước các câu hỏi hóc búa. Về phần viết luận, tôi nộp bài trước hạn 2 ngày, sau đó làm một chuyến 6 ngày đi Edinburgh và Belfast chơi. Đó là vì trước khi sang đây tôi đã từng tập viết những bài dài và khó hơn mấy bài luận đó.

Nhưng ngược lại, nếu bạn chấp nhận việc chỉ đạt trình độ trung bình về ngôn ngữ, và “cái sự học” của bạn sẽ tràn đầy khổ đau. 15 trong số 17 bạn học của tôi vật lộn với đống bài luận và báo cáo trong những tuần thi do kĩ năng tiếng Anh không ổn (họ đều được học tiếng Anh vài tháng ở đây rồi ngay sau đó thi IELTS được ít nhất 6.5, hoặc đã dùng tiếng Anh trong trường suốt từ thời tiểu học). Họ nộp bài vào những phút cuối cùng, sau những đêm không ngủ. Và không có một ai được điểm trên 59% cho bài thuyết trình đề cương nghiên cứu.

Vượt trội hay ngụp lặn ở nhóm cuối, đó là lựa chọn của bạn. Nhưng đừng bao giờ để suy nghĩ sai lầm này xuất hiện: chính giáo dục của nước Anh sẽ tạo điều kiện cho bạn phát triển. Thực chất, hệ thống này đặt ra cho bạn rất nhiều thử thách, và chỉ qua quá trình giải quyết những vấn đề ấy bạn mới có thể tiến bộ.

Chỉ những người không bao giờ ngừng học hỏi mới có thể vượt qua những thử thách ấy. Với những người nghĩ rằng mình đã đủ điều kiện để đến nước Anh, bất kể về mặt ngôn ngữ hay tư duy, khả năng cao là họ sẽ bị chính những người đang ở Việt Nam vượt mặt. Bất kể trong trường hợp nào, không gian khổ, không thành công.

(*) Distinction tương đương với điểm từ 70 trở lên trong thang điểm 100. Trong cả một lứa sinh viên của một khoa, số người đạt điểm này ít tới mức có thể đếm trên đầu ngón tay. Điểm từ 80 trở lên gần như không bao giờ xuất hiện.